Andres Segovia danh cầm vĩ đại
Andres Segovia là một trong những nhạc sĩ quan trọng nhất của thế kỷ 20, và đương nhiên là tay guitarist nổi tiếng nhất thế giới. Thiên tài ngoại hạng và sự bền chí của ông đã vượt qua tất cả những thành kiến nặng nề sẵn có đối với cây guitar, để đưa nhạc khí này lên một vị trí không thua kém bất cứ nhạc khí nào khác. Không có một tay guitarist nào ngày nay mà không bị ảnh hưởng ít nhiều bởi Segovia.
Năm lên 5 tuổi, Segovia được đưa về sống với người chú ở Granada. Ông ta tìm cách khuyến khích cháu mình học vĩ cầm nhưng không thành công. Andres Segovia lại đâm ra mê tiếng đàn guitar của một nghệ sĩ guitar flamenco sống cùng nhà người chú lúc ấy. Năm 10 tuổi, Segovia có một cây đàn riêng và mặc cho người chú ngăn cản, hễ rảnh lúc nào là Segovia ôm cây đàn guitar lúc đó. Sau khi người chú qua đời, Segovia về sống với mẹ và người em ở Cordoba, khi ấy ông mới 12 tuổi. Không bao lâu sau, ông dọn ra ở riêng để có thể dành trọn thời giờ cho cây guitar và âm nhạc. Ông kết thân với nhiều nhạc sĩ, trong đó có nghệ sĩ dương cầm Luis Serrano, và từ đó quen với một nghệ sĩ dương cầm trẻ tuổi khác là Rafael de Montis. Montis rất khâm phục những soạn phẩm cổ điển mà Segovia chuyển soạn cho guitar.
Năm 16 tuổi, Segovia rời ghế nhà trường và nhất quyết dành trọn đời mình cho cây guitar. Năm 1909 ông xuất hiện lần đầu trước công chúng tại Trung tâm Nghệ thuật Granada. Sau đó ông đến thăm nhà của Rafael de Montis ở Seville. Tại đây, ông gặp được nhiều nhân vật quan trọng rất khâm phục tài nghệ của Segovia, và chính những người này đã đứng ra đỡ đầu Segovia trong những buổi độc tấu sau đó. Trong hơn 1 năm ở Seville, Segovia đã trình diễn tất cả là 16 lần. Từ đó ông bèn mang đàn đi trình diễn tại các thành phố lớn ở Tây Ban Nha, nhưng các nhạc sĩ và các nhà phê bình âm nhạc lên tiếng phê bình nặng nề về cây guitar cổ điển.
Năm 1912 Segovia đến Madrid và trình diễn lần đầu tiên tại kinh đô của Tây Ban Nha. Tại đây ông gặp nhà làm đàn guitar Manuel Ramirez. Khâm phục tài năng của Segovia, Ramirez bèn tặng tay guitar trẻ tuổi này một trong những cây đàn tốt nhất của mình. Chuyến lưu diễn ở Madrid tuy thật hoàn hão nhưng lại không được mọi người đánh giá cao.
Segovia bèn đến Valencia và làm quen với đệ tử ruột của Tarrega là Miguel Llobet. Họ trở thành bạn thân và Llobet mời Segovia về nhà mình ở Barcelona. Segovia đàn trình diễn 3 lần ở Barcelona khá thành công.
Về lại Madrid, Segovia được giới thiệu gặp một ông bầu âm nhạc tên là Ernesto de Quesada. Khâm phục kiến thức âm nhạc và tài nghệ của Segovia, Quesada tự đề nghị đứng ra làm ông bầu cho Segovia. Chuyến lưu diễn đầu tiên mà Quesada sắp đặt cho Segovia là một vòng các nước Nam Mỹ và chuyến đi này đạt thành công lớn. Năm 1920, Segovia được mời đàn trình diễn cho Nữ hoàng Victoria của Tây Ban Nha tại Lâu đài Madrid và việc này đã đánh dấu sự khởi đầu của một giai đạn mới mà danh tiếng của Segovia lên như diều gặp gió. Lúc bấy giờ ông mới 27 tuổi.
Từ 1920 đến 1935, Segovia liên tục trình diễn tại khắp các thành phố lớn ở châu Âu. Ông xuất hiện ở Luân đôn và Paris năm 1924, ở Moscow năm 1926 và năm 1928 thì vượt Ðại tây dương qua Mỹ trình diễn ở Tòa Thị sảnh New York. Bất cứ nơi nào ông đến cũng đều được thính giả nhiệt liệt hoan nghênh. Cũng trong thời gian này, Segovia bắt đầu kêu gọi các nhà soạn nhạc sáng tác cho guitar và người đầu tiên hưởng ứng là Federico Moreno Torroba. Sau đó thì một số những nhà soạn nhạc nổi tiếng khác cũng bắt đầu viết những nhạc phẩm độc tấu guitar và cho guitar và dàn nhạc, như Manuel Ponce, Heitor Villa-Lobos, Joaquin Turina, Mario Castelnuovo-Tedesco và Joaquin Rodrigo.
Năm 1936 Segovia rời Tây Ban Nha khi cuộc nội chiến bùng nổ, và ngôi nhà của ông ở Barcelona bị vơ vét sạch. Ông chỉ trở lại Tây Ban Nha sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt và suốt quãng thời gian ày, ông sống ở New York và Montevideo, Uruguay.
Từ khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, Segovia chính là nhân tố đưa đến một cuộc cách mạng cho dân chơi đàn guitar cổ điển. Trong hằng bao nhiêu năm, ông đã phải chịu khổ sở vì nỗi sợi dây đàn làm bằng dây gân hoàn toàn không đáng tin cậy chút nào. Với sự trợ giúp của người bạn là Albert Augustine, Segovia đã thuyết phục được công ty hóa chất Du Pont nghiên cứu khả năng sáng chế một loại dây đàn bằng nylon. Augustine đứng ra lãnh trách nhiệm về dự án này và năm 1947, những sợi dây guitar bằng nylon đầu tiên được chế tạo. Ðây lại là một bước tiến mới cho cây guitar do chính Segovia khởi xướng.
Trong hai thập niên 1950’s và 1960’s, Segovia tiếp tục cuộc đời của một nghệ sĩ biểu diễn và thâu băng. Ông trình diễn trung bình 100 lần một năm và thâu tất cả 30 đĩa hát cho hãng Decca. Cũng trong thời gian này, ông đã bắt đầu tổ chức các lớp masterclasses ở Siena, Ý và Santiago de Compostela, Tây Ban Nha. Nhiều tay guitarists tham dự các lớp học này sau đó đã trở thành những danh cầm nổi tiếng thế giới. Cho đến ngày qua đời, Segovia vẫn thỉnh thoảng tổ chưc các lớp master classes tận ở Mỹ và Nhật bản. Phong trào guitar mà ông khởi xướng đã tạo ra nhiều danh cầm chưa từng thấy. Segovia cũng đã khuyến khích nhiều Nhạc viện tại các thành phố lớn mở thêm môn guitar trong chương trình học, và ngày nay có thể nói rằng hầu như các trường cao đẳng lớn nào cũng đều có bộ môn guitar cả.
Trong giai đoạn đầu cuộc đời âm nhạc, Andres Segovia đã tự đặt cho mình nhiều mục đích, tất cả đều nhắm vào việc nâng cây guitar lên một tầng cao hơn. Hạt giống mà Francisco Tarrega và Miguel Llobet đã gieo, nay lại được Segovia cố gắng không ngừng để chăm bón và giúp nở hoa, kết trái. Có thể nói rằng Segovia đã đạt được hết các mục đích mà ông đã đặt ra , và còn hơn thế nữa. Ngày nay cây đàn guitar đã hoàn toàn được chấp nhận trong mọi giới trên khắp toàn cầu.
Cha của Presti – Claude Montagnon – là một người Pháp, dạy piano chuyên nghiệp. Mẹ – Olga Lo Presti – là người Ý. Ida Presti bắt đầu học piano với cha năm 5 tuổi. Lên 6 tuổi thì Presti chuyễn sang học guitar và ngay tức khắc đã nhận ra rằng đây là nhạc cụ sẽ giúp phát triển tài năng âm nhạc đặc biệt của mình. Từ năm 8 tuổi (1932) Ida Presti học guitar hai năm với Mario Maccaferi tại Paris, và cha của bà vẫn tiếp tục dạy hòa âm và nhạc lý.
Ida Presti ra mắt công chúng lần đầu tiên năm lên 8 tuổi và hai năm sau đó thì trình diễn lần đầu ở Paris. Ngày 13.2.1938, Presti được mời biểu diễn tại Société des Concerts du Conservatoire de Paris, lần đầu tiên một nghệ sĩ guitar được mời trình diễn tại đây (kể từ khi Napoléon Coste trình bày tác phẩm Op. 15 – sáng tác để tặng Berlioz). Năm 1940, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Paganini, Ida Presti đã dùng cây đàn của Paganini để tham gia trình diễn bản hòa tấu tưởng niệm. Các buối biểu diễn của Presti đều rất xuất sắc, và hơn 20 năm sau, bà đã liên tục thực hiện các chuyến công diễn ở Pháp và các nước khác. Ida Presti cũng xuất hiện trong một bộ phim Pháp mang tên “La Petite Chose”.
Năm 1952 Presti gặp tay guitar Alexandre Lagoya tại nhà của André Verdier, bạn của 2 người. Họ thành hôn một năm sau đó, vào ngày 23.5.1953. Hai năm sau thì cặp song tấu Lagoya-Presti bắt đầu tiên xuất hiện trước công chúng. Được xem như là cặp song tấu guitar hay nhất thời đại, Presti và Lagoya đã biểu diễn hơn 2000 lần trên khắp thế giới. Họ cùng nhau thành lập một lớp guitar có uy tín tại Schola Cantorum ở Paris, và đã thu vài băng nhạc tuyệt vời cho hãng đĩa Philips.
Nhưng bất hạnh thay, trong lúc chuẩn bị cho một buổi trình diễn tại thành phố New York vào năm 1967, Ida Presti thình lình ngã bệnh và đã chết rất nhanh sau đó vì chứng xuất huyết nội của bệnh ung thư phổi.
.Ida Presti là một nữ thần đồng guitarist người Pháp của thập niên 40s-60s. Lúc mới lên 8 bà đã biểu diễn guitar trên sân khấu và sau đó tên tuổi bà rất nổi trong thế giới âm nhạc. Năm bà 13 tuổi Segovia đã tuyên bố về bà: “Tôi không có gì để dạy cô ta… Cô ta cũng không nên nhận sự cố vấn của bất cứ một guitarist nào!”
Ida Presti cùng chồng là Alexandre Lagoya trở thành một cặp song tấu đầu tiên thành công trên sân khấu quốc tế. Năm 1967 sau một đêm trình diễn hoàn hảo ở sân khấu Carnegie Hall ở New York, cặp song tấu đang trên máy bay để đi tour các thành phố khác thì bà Presti thình lình cảm thấy nhức đầu, máy bay bà phải lập tức đáp khẩn cấp xuống lại New York và bà được đưa vào bệnh viện. Sau một cuộc giải phẩu khẩn cấp không thành, bà mất ngay trong bệnh viện khi mới có 42 tuổi.
Cuộc đời âm nhạc tuy ngắn ngủi nhưng Ida Presti đã tạo cho bà một chổ đứng không nhỏ trong lịch sử của đàn guitar. Bà đã làm cho nhiều người khâm phục về kỹ thuật chơi đàn cũng như sự hiểu biết về âm nhạc của bà. Bài Sarabande của Francois Poulenc mà chúng ta biết là một trong những tác phẩm của các nhạc sỹ nổi tiếng viết để tặng Ida Presti. Cùng với chồng, cặp Presti & Lagoya không những lừng danh qua những arangements các tác phẩm nổi tiếng và lối chơi độc đáo, trung thực của hai người, mà còn là bậc thầy của nhiều cặp song tấu như Ako Ito & Henri Dorigny, Evangelos & Liza, và nhiều soloists khác như Alice Artzt, Liona Boỵd…
Presti & Lagoya cũng là người sáng lập ra môn phái “right-side-of the nails”, một lối chơi dùng phần móng tay bên phải để khảy dây đàn thay vì dùng phần móng tay bên trái như Segovia, Bream, Williams và phần đông guitarists hiện nay.
Thương tiếc thay cho một nhân tài vắn số!
Julian Bream Nghệ sĩ thiên tài
Julian Bream là một trong những nghệ sĩ guitar vĩ đại nhất thế giới. Ngay từ khi mới 17 tuổi, tuy chưa hề trình diễn ngoài Anh Quốc mà danh tiếng của Bream đã vang dội khắp thế giới.
Bream lớn lên trong môi trường âm nhạc. Cha của ông đàn guitar Jazz và là trưởng một ban nhạc. Bream thường nghe các băng nhạc Django Reinhardt của cha và từ đó trở nên say mê nét nhạc của tay guitar Jazz phù thủy huyền thoại này. Cha của Bream khuyến khích Bream chơi piano, nhưng đồng thời cũng dạy cho ông chơi guitar. Năm 1944 nhân sinh nhật thứ 11, Bream được cha tặng một cây đàn guitar cổ điển.
1945 Bream đoại một giải piano dành cho người trẻ tuổi. Cũng năm đó, cha của ông cũng đã giới thiệu để Bream xuất hiện tại một buổi biểu diễn do Hội Guitar Cổ điển London tổ chức. Cảm kích trước tài năng nổi bật của Bream, ông Boris Perrot Chủ tịch Hội đã đề nghị dạy cho Bream guitar cổ điển và ông theo học trong vòng một năm. Sau đó chính ông Perrot và Wilfred Appleby đã giới thiệu Julian Bream với Andres Segovia. Sau khi nghe Bream đàn, Segovia rất thích thú và đã truyền cho cậu bé 13 tuổi này vài bài học.
Được cha khuyến khích, Bream quyết định tạo dựng sự nghiệp âm nhạc. Năm 15 tuổi, ông được học bổng toàn phần ở Royal College of Music và theo học về piano, hòa âm và soạn nhac ở đây trong 3 năm.
1951, trong buổi biểu diễn ra mắt ở Wigmore Hall, London, Bream đã được giới phê bình nhiệt liệt tán thưởng.
Tuy phải gia nhập quân đội Anh trong ba năm (1952-1955), Bream vẫn xuất hiện thường xuyên trên đài phát thanh và truyền hình, cũng như trong các buổi hòa nhạc.
Bream bắt đầu lưu diễn ở châu Âu vào những năm 1954 – 1955. Sau đó từ 1958 ông trình diễn khắp Bắc Mỹ, Viễn Đông, Ấn Độ, Úc, các đảo Thái Bình Dương và nhiều miền đất khác trên thế giới. Ngoài việc hướng dẫn các lớp guitar ở Canada và Mỹ, Bream cũng tổ chức các khóa guitar quốc tế mùa hè (International Summer School) ở Wilshire, Anh.
Những băng guitar thâu cho hãng RCA đã giúp Bream nổi danh trên thế giới và mang lại cho ông nhiều giải thưởng quan trọng, trong số đó có giải “Award of the National Academy of Recording Arts and Sciences”, 2 giải Grammy (1963 và 1966) và 1 giải Edison (1968).
Từ 1952, Bream bắt đầu trình diễn đàn Lute trong chương trình Wigmore Hall Recital và nổi danh nhờ cây đàn Lute, giúp làm sống lại một nhạc cụ đã từng bị bỏ quên trên 300 năm.
Bream cũng đã có công góp phần gia tăng số tác phẩm giá trị cho Guitar với những sáng tác của các nhà soạn nhạc danh tiếng như Benjamin Britten, William Walton, Hans Werner Henze, Peter Fricker, Richard Rodney Bennett, Malcolm Arnold, và Lennox Berkley.
Julian Bream cũng đã xuất hiện ở những buổi hòa nhạc song tấu và ghi chung ba băng nhạc với đồng nghiệp John Williams, đạt thành công lớn với sự hợp tác này. Ðài BBC cũng đã giới thiệu một chương trình đặc biệt về cuộc đời nghệ sĩ của Bream và 4 chương trình dạy guitar xuất sắc của ông trên đài truyền hình.(st)