Đàn ghita xuất hiện ở Việt Nam từ bao giờ là một câu trả lời khó. Giả thuyết hiện nay được nhiều người đồng ý là đàn ghita đã theo chân các cố đạo Tây Ban Nha du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 19. Nhưng phải đến năm 1920 mới bắt đầu xuất hiện những người Việt Nam chơi ghita.
Quá trình hình thành
Những người chơi ghita đầu tiên ở Việt Nam chính là các nghệ sỹ cải lương. Với óc sáng tạo của mình, họ đã tạo ra cây ghita phím lõm, bổ sung một dòng ghita mới là ghita cải lương. Đây là dòng ghita rất phổ biến trong nhạc tài tử Nam Bộ trước 1945 với những tên tuổi nổi tiếng như Tư Chơi, Ba Kéo, Bây Cây, Chín Hòa, Phùng Há, Năm Phỉ, Văn Vĩ… Ghita phím lõm là guitar du nhập từ nước ngoài được khoét lõm phím đàn và lên dây theo âm giai ngũ cung (pentatonic) “Líu, Xề, Líu Hò, Lìu” để đàn các bài bản cải lương.
Vào thập niên 1930, tân nhạc Việt Nam phát triển cùng với số lượng người chơi ghita theo lối mới tăng lên. Bên cạnh những người diễn tấu người nước ngoài đã xuất hiện những tên tuổi Việt Nam như Phan Văn Trường, Canh Thân, Đỗ Chí Khang, Thiện Tơ, Dương Thiệu Tước. Tuy nhiên, họ đều tự học là chính chứ không được đào tạo một cách bài bản. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của ghita, các hình thức biểu diễn và diễn tấu đều mang tính tự phát. Phổ biến nhất là dạng ban nhạc gồm 4 nhạc cụ: ghita Hawaii, guitar 6 dây, Đại hồ cầm và ghita 4 dây Hawaii (ukulele), chơi hòa tấu trong các phòng trà hoặc quán bar. Các hình thức khác như song tấu hay độc tấu mãi tới thập niên 1940 về sau này mới phát triển với các tên tuổi nổi danh như Tạ Tấn, Phạm Ngữ…
Năm 1932, xuất hiện cây đàn ghita đầu tiên do người Việt Nam làm là cây đàn do cụ Xuân Lan, người làng Đào Xá (Hà Nội) chế tác. Thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều cửa hiệu làm đàn nổi tiếng như Nhạc Sơn, Kim Thanh, Tạ Tấn.
Quá trình phát triển
Giữa thập niên 1940, cây ghita đã giành được vị thế quan trọng trong giới mộ điệu của Việt Nam. Với tính chất dễ chơi, dễ học, gọn nhẹ, ghita đã trở thành bạn đường thân thiết của các nhạc sỹ kháng chiến, giới học sinh sinh viên và nhiều người yêu nhạc.
Nhiều tác giả đồng thời là người đệm ghita rất giỏi đã xuất hiện như Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Phạm Duy, Văn Ký, Hoàng Vân, Trọng Bằng, Văn Chung, Tô Vũ, Nguyễn Văn Tí…
Thời kỳ trước 1975
Tuy nhiên, vì yếu tố chiến tranh, đất nước bị chia cắt, mà nghệ thuật ghita cũng vì thế trở nên thăng trầm. Dần dần có sự phân hoá rõ rệt tại hai vùng Nam – Bắc của đất nước. Tại mỗi nơi, ghita có những đặc thù nhất định.
Tại miền Bắc, cùng với sự ra đời của bộ môn ghita trong khoá giảng dạy đầu tiên của trường Âm nhạc Việt Nam (1956) do Phạm Ngữ làm chủ nhiệm đã đánh dấu bước đi quan trọng cho thấy ghita được chính thức chấp nhận một cách rộng rãi.
Nhạc phẩm và sách giáo khoa có giá trị được biên soạn cho ghita được xuất bản một cách rộng rãi. Các nhạc phẩm của thời kỳ này hầu hết là được chuyển soạn (arrangement) từ các ca khúc Việt Nam nổi tiếng hay biến tấu (variation) trên các làn điệu dân ca. Hầu hết các trung tâm nghệ thuật quần chúng, chẳng hạn như nhà văn hoá đều có các lớp dạy đàn ghita. Nguồn tiếp xúc chủ yếu của các nghệ sỹ ghita miền Bắc là thông qua sự viện trợ các băng nhạc nước ngoài của Liên Xô và các nước Đông Âu.
Buổi trình diễn ghita độc tấu đầu tiên ra mắt công chúng tại Hà Nội năm 1973 đã được hoan nghênh nhiệt liệt.
Sự mở rộng phát triển của ghita dần dần đã tạo nên lớp nghệ sỹ trẻ mới bên cạnh những đàn anh đi trước như Hải Thoại, Đỗ Trường Giang, Vũ Bảo Lâm, Quang Khôi, Phạm Văn Phúc, Nguyễn Văn Ti, Nguyễn Quang Tôn, …
Song, do hoàn cảnh chiến tranh, thiếu bài bản và điều kiện tổ chức, thiếu cả sự liên hệ với nền nghệ thuật ghita thế giới, và thiếu cả nghệ sĩ ghita bậc thầy được đào tạo chính quy nên nghệ thuật ghita ở miền Bắc lúc đó phát triển chậm và không đều.
Ở miền Nam, sự phát triển của guitar có phần thuận lợi hơn. Đàn ghita được đưa vào chương trình giảng dạy của trường Quốc gia Âm nhạc Huế và trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn từ 1956. Thêm vào đó, giới mộ điệu ở Sài Gòn được tiếp xúc nhiều hơn với ghita cổ điển thế giới thông qua những buổi trình diễn của các bậc thầy như Siegfried Behrend, Julian Bream, Alice Artzt,… Ghita từ chỗ phổ biến ở phòng trà, dần dần đã đi vào đời sống thường nhật. Có rất nhiều dòng ghita cùng song song tồn tại và hỗ trợ cho nhau rất tốt như ghita cổ điển, ghita flamenco, ghita jazz. Một vài tên tuổi nổi tiếng trong thời kỳ này phải kể đến Đỗ Đình Phương, Trương Huệ Mẫn, Võ Tá Hân, Hoàng Bửu, Trần Văn Phú hay Hoàng Liêm, Văn Trổ…
Thời kỳ sau 1975
Đất nước thống nhất, nghệ sỹ ghita ở hai miền có dịp gặp nhau, trao đổi kinh nghiệm, bài bản và kỹ thuật. Từ đó tạo cơ sở cho nền nghệ thuật ghita non trẻ của Việt Nam có dịp phát triển lên một trình độ mới.
Chính từ những cuộc biểu diễn khá đều đặn trong thập niên 1980 tại thính phòng nhỏ của Nhà văn hóa quận Phú Nhuận mà công chúng yêu nhạc cổ điển Sài Gòn đã biết đến một loạt tên tuổi mới của làng ghita như Phạm Quang Huy, Châu Đăng Khoa, Nguyễn Thái Cường, Huỳnh Hữu Đoan, Dương Kim Dũng,… có cả những nghệ sĩ nữ tài năng như Ngô Thị Minh, Nguyễn Thị Phi Loan…
Thập niên 1980 cũng có thể nói là giai đoạn chín mùi về tài năng và đỉnh cao về nghệ thuật của Phùng Tuấn Vũ nghệ sĩ ghita hàng đầu Việt Nam và là người góp phần đào tạo hàng loạt tên tuổi mới của ghita Việt Nam sau nàỵ. Trong khi đó, ở Hà Nội cũng xuất hiện những tài năng mới đầy triển vọng như Đặng Ngọc Long, Phan Đình Tân, Phạm Văn Phương, Nguyễn Lan Anh… Trong số những cái tên vừa kể, Đặng Ngọc Long, được tu nghiệp ở Đông Đức, là nghệ sĩ ghita (guitarist) đầu tiên của Việt Nam được theo học tại một quốc gia có nền nghệ thuật ghita phát triển.
Hiện tại
Kể từ sau năm 1990, ghita cổ điển cũng như nghệ thuật ghita nói chung dường như bước vào thoái trào. Giới ghita cổ điển chỉ còn gói gọn trong các nhạc viện. Những nghệ sỹ lớn hầu hết đều chuyển sang chơi nhạc nhẹ hoặc rời ra nước ngoài. Nghề làm đàn ghi-ta, vĩ cầm, mandoline… cũng đang ngày càng tàn lụi, cả Sài Gòn chỉ còn khoảng 10 điểm sản xuất đàn với 2 – 3 nghệ nhân sống chết với nghề. Và hiếm hoi lắm người ta mới tìm được một thương hiệu ghi-ta nghiêm túc tại Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên ghi-ta vẫn luôn có chỗ trong lòng công chúng yêu nhạc. Rất nhiều cuộc thi có quy mô đã được tổ chức. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, mạng Internet, sự giao lưu của những người yêu ghi-ta đã không bị giới hạn trong một vùng cụ thể mà có thể thường xuyên tìm hiểu trao đổi học hỏi với bên ngoài.